“Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi”

Nước mất, nhà tan. Nhân dân chịu hai tầng áp bức, bốc lột. Những cuộc nổi dậy, các trào lưu yêu nước, các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tục nhưng đều thất bại, hoặc chìm trong biển máu hoặc dần đi đến thoái trào… Tất cả hiện trạng ấy đã đặt cho lịch sử một câu hỏi lớn về con đường đấu tranh đúng đắn nhất, phù hợp nhất với dân tộc, với bối cảnh Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Sinh ra trong tình cảnh ấy, cũng thấm thía hơn ai hết cái tình cảm trớ trêu ấy; hơn nữa, lại mang trong mình trái tim yêu nước, thương nòi thiết tha bậc nhất, người thanh niên Nguyễn Tất Thành chưa khi nào thôi trăn trở, thôi nung nấu ý định tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Vậy nên, với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ và đặc biệt là với mong ước tột cùng là “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

“Làm những điều tưởng chừng không thể”

“… Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên, anh mới nếm mùi kem. Sau ít hôm, anh đột nhiên hỏi tôi: “Anh Lê, anh có yêu nước không?”. Tôi ngạc nhiên và đáp: “Tất nhiên là có chứ!”. “Anh có thể giữ bí mật không?”. “Có”. “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?”. “Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?”. “Đây, tiền đây”. 

Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay. “Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Thế thì anh cùng đi với tôi chứ?”. Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh, tôi đồng ý. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ về cuộc phiêu lưu, tôi không có đủ can đảm để giữ lời hứa. Vài ngày sau, tôi không gặp lại anh bạn nữa. Tôi đoán là anh ta đã đi ngoại quốc. Anh ta đi bằng cách nào? Tôi không biết. Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy là cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ Tịch của chúng ta ngày nay”…

“Cuộc hành trình vĩ đại cho dân tộc, tự do cho nhân dân”

“Cuộc hành trình đời người” kéo dài suốt 3 thập kỷ (1911-1941) đã đưa người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc qua nhiều quốc gia, để vừa lao động kiếm sống, vừa không ngừng quan sát, tìm hiểu, chiêm nghiệm và nhận thức thực tiễn. 

Trong suốt 30 năm bôn ba, đã có nhiều dấu mốc quan trọng, tác động đến cuộc đời hoạt động của Người. Sau khi sang Pháp, Nguyễn Tất Thành vừa làm vừa học và sau này gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Đến giữa năm 1919, chính giới Pháp Pari và chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, Việt Nam, bắt đầu xôn xao về một nhân vật có tên là Nguyễn Ái Quốc – người đại diện cho “Hội những người yêu nước An Nam tại Pháp”, ký tên dưới “Bản yêu sách của Nhân dân An Nam” gửi đến đại biểu các nước thắng trận Chiến tranh thế giới thứ nhất tham dự hội nghị hòa bình họp tại lâu đài Versailles, ngoại ô thủ đô Pari. “Bản Yêu sách của nhân dân An Nam” yêu cầu Chính phủ Pháp: (1) Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; (2) Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong Nhân dân An Nam; (3) Tự do báo chí và tự do ngôn luận; (4) Tự do lập hội và hội họp; (5) Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; (6) Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ; (7) Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; (8) Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ…

Từ sự kiện này, Bộ Nội vụ Pháp đã xác định: “Cuộc điều tra về phong trào tuyên truyền chống Chính phủ trong các giới Việt Nam ở Pari để ủng hộ “Bản Yêu sách của Nhân dân An Nam” cho phép rút ra kết luận rằng, hiện nay linh hồn của phong trào đó chính là Nguyễn Ái Quốc, Tổng thư ký Hội những người Việt Nam yêu nước”. Đồng thời, có nhận định cho rằng, “lần đầu tiên trong lịch sử, có một người Việt Nam tuyên bố trước toàn thế giới chủ trương giành độc lập cho dân tộc mình; lần đầu tiên trong lịch sử, có một người Việt Nam dám bóc trần những tội ác của bọn thực dân Pháp ngay ở Paris”. Cũng từ đó mà “Chính cái tên Nguyễn Ái Quốc bản thân nó có sức hấp dẫn lạ kỳ”!

Có thể nói, Hồ Chí Minh là con người của hành động. Theo nhiều nhà nghiên cứu, triết lý hành động Hồ Chí Minh, trước hết xuất phát từ trong tư tưởng, truyền thống văn hóa Việt Nam. Trong đó, điều nhân lõi nhất của triết lý nhân sinh truyền thống Việt Nam đã trở thành nền tảng cho mọi quan điểm và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là triết lý về ở đời và làm người. Đồng thời, triết lý hành động của Người cũng chịu ảnh hưởng của các nhà tư tưởng lớn của dân tộc, như Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” gắn với triết lý “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; hay Lý Thường Kiệt với “Nam quốc sơn hà” đã khảng khái khẳng định chủ quyền quốc gia dân tộc… Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chiêm nghiệm: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”! Cũng bởi xuất phát từ yêu nước, thương dân, đau đáu trước cảnh nước mất, nhà tan nên chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành mới quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.

Đó là hành trình tìm lại “hình” của nước, hay tìm lại “sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai” – tìm lại truyền thống lịch sử – văn hóa hào hùng để làm điểm tựa cho một tương lai rạng rỡ Việt Nam; cũng đồng thời là khẳng định quyền tự quyết dân tộc để vẽ lại hình chữ S tươi mới trên bản đồ nhân loại. 

(Bài viết có sử dụng tài liệu “Hồ Chí Minh hành trình vì độc lập dân tộc (1911 – 1945)”)